Thời gian dài qua, các cơ quan chức năng đã bỏ nhiều công sức để tìm ra giải pháp phù hợp, tối ưu nhất, trong đó đặc biệt là việc đề xuất thang bậc lương mới cho cán bộ đương chức. Điều đó là hoàn toàn hợp lý, song có lẽ, vấn đề lương hưu như được coi là "phụ lục", đề xuất tăng đồng loạt 8% chưa kể có ý kiến chỉ tăng cho người lương hưu thấp. Trong khi đó, đối với người đương chức, đề xuất tăng 23,5% hoặc cao hơn.
Thời gian dài qua, các cơ quan chức năng đã bỏ nhiều công sức để tìm ra giải pháp phù hợp, tối ưu nhất, trong đó đặc biệt là việc đề xuất thang bậc lương mới cho cán bộ đương chức. Điều đó là hoàn toàn hợp lý, song có lẽ, vấn đề lương hưu như được coi là "phụ lục", đề xuất tăng đồng loạt 8% chưa kể có ý kiến chỉ tăng cho người lương hưu thấp. Trong khi đó, đối với người đương chức, đề xuất tăng 23,5% hoặc cao hơn.
Theo Điều 64 Luật BHXH năm 2024 có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 thì điều kiện hưởng lương hưu đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường là đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Khoản 2 Điều 169 của Bộ luật Lao động và có thời gian đóng BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên.
Tại Khoản 1 Điều 66 Luật BHXH năm 2024 quy định mức lương hưu hằng tháng của đối tượng đủ điều kiện quy định tại Điều 64 của Luật này được tính như sau:
Đối với lao động nữ bằng 45% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này tương ứng 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%;
Đối với lao động nam bằng 45% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này tương ứng 20 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75%.
Trường hợp lao động nam có thời gian đóng BHXH từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm, mức lương hưu hằng tháng bằng 40% mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH quy định tại Điều 72 của Luật này tương ứng 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng thì tính thêm 1%.
Về mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH, Điểm d Khoản 1 Điều 72 Luật BHXH năm 2024 quy định người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này thì tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của số năm đóng BHXH trước khi nghỉ hưu như sau: Bắt đầu tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015 thì tính bình quân của tiền lương tháng đóng BHXH của 10 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
Khoản 3 Điều 72 Luật BHXH năm 2024 quy định: Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH chung của các thời gian, trong đó thời gian đóng theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định được tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH theo quy định tại Khoản 1 Điều này.
Việc tính mức lương hưu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tổng thời gian đã đóng BHXH, diễn biến thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH, cả quá trình đóng BHXH đến khi nghỉ hưu, tuổi đời, giới tính, thời điểm nghỉ hưu, chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ...
Do ông Sáng cung cấp thông tin không đầy đủ nên BHXH Việt Nam chưa đủ căn cứ để trả lời cụ thể, BHXH Việt Nam cung cấp nội dung quy định của chính sách về chế độ hưu trí để ông nắm được.
Đề nghị ông Sáng cung cấp mã số BHXH hoặc liên hệ với cơ quan BHXH nơi đơn vị của ông đang tham gia BHXH để được tư vấn, hướng dẫn cụ thể.
Cải cách tiền lương của gần 2,8 triệu cán bộ, công chức
Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến tháng 12/2023, cả nước có gần 2,8 triệu cán bộ, công chức, viên chức (không bao gồm khối lực lượng vũ trang) đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Từ 1/7, cải cách chính sách tiền lương với cán bộ, công chức, viên chức (Ảnh: Hoa Lê).
Khi đánh giá tác động của chính sách tiền lương mới đến việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng cho hay, tiền lương bình quân tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là 6,936 triệu đồng/tháng.
Bên cạnh đó, đến tháng 12/2023, có 88.137 người hoạt động không chuyên trách cấp xã đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tiền lương bình quân tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của nhóm này là 1,8 triệu đồng/tháng.
Từ thực tế trên, Bảo hiểm xã hội Việt Nam dự kiến từ 1/7 tăng mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bình quân thêm khoảng 54,89% và tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội là 25%. Khi áp dụng mức tăng mới, số tiền thu bảo hiểm xã hội tăng thêm trong 1 năm là 31.728 tỷ đồng.
Đề xuất mức tăng lương hưu năm 2024
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, với cách tính mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần theo đề xuất thì bình quân 5 năm mức lương hưu của người lao động tăng khoảng 1,5% (chưa tính đến yếu tố trượt giá).
Đồng thời, lương hưu của người nghỉ sau ngày 1/7/2024 chỉ tăng 0,13% so với người nghỉ hưu tháng 6/2024.
Thực tế, mức điều chỉnh lương hưu tại năm 2004, 2005 chỉ khoảng 10% (thời điểm thay đổi thang bảng lương toàn diện của người lao động trong khu vực nhà nước).
Cùng với việc xét yếu tố trượt giá vào điều chỉnh lương hưu và tăng trưởng kinh tế năm 2023 (theo quy định tại Điều 57 Luật BHXH năm 2014), Bảo hiểm xã hội Việt Nam đề xuất mức điều chỉnh lương hưu từ ngày 1/7/2024 khoảng 8% là phù hợp.
Đề xuất tăng lương hưu 8% từ 1/7 (Ảnh: Hoa Lê).
Đề xuất trên căn cứ mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng năm 2023 là 3,25% và tăng trưởng kinh tế năm 2023 là 5,05%.
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, điều này sẽ giúp giảm bớt sự chênh lệch giữa người hưởng lương hưu trước cải cách tiền lương và người hưởng lương hưu từ ngày 1/7/2024 trở đi.
Với mức điều chỉnh đề xuất 8%, dự kiến 6 tháng cuối năm 2024, kinh phí thực hiện điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội từ ngân sách nhà nước tăng khoảng 1.900 tỷ đồng.
Trường hợp điều chỉnh bổ sung đối với người nghỉ hưu trước năm 1995 có mức hưởng sau khi điều chỉnh theo mức 8% dưới 3,5 triệu đồng/tháng thì kinh phí tăng thêm khoảng 50 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, kinh phí điều chỉnh của Quỹ bảo hiểm xã hội tăng khoảng 6.900 tỷ đồng (chưa bao gồm mức trích đóng bảo hiểm y tế).